Kính chúc quý khách hàng ngày mới tốt lành , thân tâm an lạc vạn sự cát tường !!
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là những di sản văn hóa phi vật thể mang tính tiêu biểu cho quốc gia. Tại Việt Nam, những di sản này được các địa phương kiểm kê, phân loại và đề xuất Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố (ghi danh).
Có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng, địa phương
Phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, được kế tục qua nhiều thế hệ
Có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài
Được cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam.[1] Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003.[2] Theo đánh giá của UNESCO, "trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia". [3] "Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất". [3] Cùng với không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức ghi danh.[3] Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc - trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỉ XI-XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Về cơ bản, nhạc nghi thức trong âm nhạc cung đình Việt Nam, nhạc tế trong các đình làng cũng như loại nhạc nghi thức được chơi trong đám cưới hay đám tang, tất cả thường được chia thành hai nhóm chính: nhóm phe văn và nhóm phe võ. Việc phân chia của các nhóm nhạc cụ hòa tấu trong dàn nhạc cung đình ở Huế từ đầu thế kỷ XIX và nguồn gốc của nó đã được tìm thấy trong các quy luật của nhiều nghi thức cúng đình tại các làng xã của người Việt ở Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ trước đây
( Nguồn : Vi.Wikipedia.org )
DÂN CA - NHÃ NHẠC - HÒ - VÍ DẶM
CA HUẾ
Ca Huế là một thể loại âm nhạc thính phòng độc đáo, kết hợp giữa âm nhạc dân gian và âm nhạc cung đình, mang đậm bản sắc văn hóa của xứ Huế.
Vinh danh: Được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2015.
CA TRÙ
Ca trù , hay còn gọi là hát cô đầu hoặc hát nói, là một thể loại âm nhạc dân gian truyền thống lâu đời của Việt Nam, có nguồn gốc từ vùng Bắc Bộ. Đây là một loại hình nghệ thuật kết hợp giữa âm nhạc thính phòng bác học và diễn xướng dân gian, thường được biểu diễn trong các không gian sang trọng như cung đình, tư gia của giới quý tộc và các nhà hàng truyền thống.
Năm 2009, UNESCO đã công nhận ca trù là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấ
DÂN CA CAO LAN
Dân ca Cao Lan còn được gọi là Sình ca, là di sản văn hóa phi vật thể của người Cao Lan thuộc dân tộc Sán Chay. Năm 2012, Sình ca được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
DÂN CA SÀN CHỈ
Dân ca Sán Chỉ , là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống lâu đời của người Sán Chỉ, còn được biết đến với tên gọi là "Sình ca" (ở Cao Bằng) hoặc "Soóng cọ" (ở Quảng Ninh). Đây là lối hát đối đáp giao duyên giữa nam và nữ, thể hiện tâm tư, tình cảm và các bài học trong cuộc sống. Dân ca Sán Chỉ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia
DÂN CA BỐ Y
Dân ca của người Bố Y
là một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục vào năm 2018. Đây là loại hình âm nhạc gắn liền với mọi mặt đời sống của người Bố Y, từ lúc chào đời cho đến khi qua đời. Dân ca Bố Y chủ yếu là thanh nhạc, còn khí nhạc thì khá sơ khai
DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH
Dân ca quan họ Bắc Ninh
là một loại hình dân ca nghi lễ, phong tục tập quán độc đáo của vùng Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh và một phần tỉnh Bắc Giang), được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009. Đây là lối hát giao duyên giữa các "liền anh" và "liền chị" với những làn điệu mượt mà, đằm thắm
DÂN CA VÍ DẶM
Dân ca Ví, Giặm
là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc của vùng Nghệ Tĩnh (gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh). Đây là một di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được UNESCO công nhận vào năm 2014
ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ
Đờn ca tài tử Nam Bộ
là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2013. Đây là sự kết hợp giữa âm nhạc, thơ ca và phong cách biểu diễn độc đáo, phản ánh tâm hồn phóng khoáng, chất phác và tinh tế của người dân Nam Bộ
HAT A ĐAY KHƠ ME
Hát Aday
là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian đặc sắc, là nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người Khmer Nam Bộ, không phải là một ngày lễ hay nghi thức tôn giáo
HÁT BẢ TRẠO
Hát Bá Trạo
, hay còn gọi là hát Bả Trạo, Chèo Bả Trạo, Hò đưa linh, Hò hầu linh, là một loại hình diễn xướng dân gian mang đậm tính nghi lễ của cư dân vùng biển miền Trung Việt Nam. Nghệ thuật này mô phỏng quá trình lao động của ngư dân và gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng cá Ông (cá voi). Hát Bả Trạo đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH
Hát bội Bình Định
là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống đặc sắc, được xem là cái nôi của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Với sự ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử "xứ Nẫu", hát bội Bình Định đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014
HÁT DẶM QUYỂN SƠN
Hát Dặm Quyển Sơn
là một loại hình dân ca truyền thống độc đáo của tỉnh Hà Nam, gắn liền với đời sống của người dân ở làng Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng. Hát Dặm Quyển Sơn đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và cần được bảo tồn và phát hu
HÁT XẨM
Hát xẩm
là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian truyền thống của Việt Nam, thường gắn liền với những người hát rong, đặc biệt là những người khiếm thị. Lời ca của hát xẩm thường phản ánh đời sống sinh hoạt, những câu chuyện đạo đức, và các vấn đề xã hội một cách chân thực
HÁT TRỐNG QUÂN
Hát trống quân là loại hình dân ca thi tài đối đáp thông qua những câu hát giao duyên có nội dung trao đổi về kinh nghiệm sống giữa nam, nữ thanh niên[1], rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc và khu vực tỉnh Thanh Hóa của Việt Nam. Nghệ thuật Trống Quân phát triển nhất ở Hưng Yên đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia,[2]
HÁT RU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở CẦN THƠ
Hát ru của người Việt ở Cần Thơ
là một nét văn hóa dân gian đặc sắc, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Những câu hát ru nơi đây mang những nét riêng biệt của vùng sông nước Nam Bộ, vừa mang đậm tình cảm gia đình, vừa phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt của người dân
HÁT QUAN LÀNG NGƯỜI TÀY
Hát Quan làng
là một làn điệu dân ca trữ tình, độc đáo của dân tộc Tày, đặc biệt phổ biến trong nghi thức đám cưới truyền thống ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang và Lạng Sơn. Đây là một loại hình nghệ thuật dân gian thể hiện sự khéo léo và tri thức văn hóa của người Tày
HÒ
HÒ CẦN THƠ
Hò Cần Thơ
là một loại hình dân ca đặc trưng của vùng sông nước, thể hiện nét văn hóa tinh thần độc đáo của người dân nơi đây. Với giá trị tiêu biểu, hò Cần Thơ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào năm 2019.
HÒ ĐỒNG THÁP
Hò Đồng Tháp
là một điệu hò nổi tiếng của vùng Đồng Tháp Mười, miền Tây Nam Bộ, Việt Nam. Điệu hò này đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào năm 2018.
HÒ KHOAN LỆ THỦY
Hò khoan Lệ Thủy
là một loại hình dân ca đặc trưng của người dân sông nước ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Năm 2017, điệu hò này đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
HÒ GIÃ GẠO
Hò Giã Gạo
là một làn điệu dân ca, một nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc, gắn liền với công việc giã gạo của người dân, đặc biệt phổ biến ở khu vực miền Trung, điển hình là xứ Huế và tỉnh Quảng Trị.
HÒ THUỐC CÁ
Đây là một làn điệu dân ca đặc trưng của người Nguồn ở Quảng Bình, được Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia vào năm 2021.
CHỮ VIẾT - VĂN TỰ - BÍCH HỌA
CHỮ NÔM CỦA NGƯỜI DAO ( BẮC CẠN
CHỮ NÔM NGƯỜI TÀY
CHỮ VIẾT CỔ NGƯỜI THÁI
CHỮ NÔM NGƯỜI DAO ( LÀO CAI )